Diễn biến Trận_chiến_biển_Philippines

Những cuộc đụng độ đầu tiên

Máy bay F6F Hellcat

4:45 sáng ngày 19 tháng 6, phó đô đốc Jisaburo Ozawa lúc này đang ở trên kì hạm Taihō, ra lệnh phóng máy bay đi trinh sát. 5:30 sáng, Lực lượng đặc nhiệm 58 Mỹ di chuyển về hướng đông bắc theo chiều gió và cũng chuẩn bị phóng máy bay trinh sát. Lúc 5:50 sáng, một phi công trên chiếc Mitsubishi Zero đã tìm thấy lực lượng Mỹ. Sau khi dùng radio thông báo vị trí hạm đội Mỹ, anh tấn công một chiếc khu trục hạm và bị bắn hạ.

Nhận được lệnh báo động, lực lượng không quân Nhật trên đảo Guam chuẩn bị tấn công quân Mỹ nhưng đã bị radar trên các tàu chiến Mỹ phát hiện. 1 nhóm F6F Hellcat từ hàng không mẫu hạm Belleau Wood được đưa đến để chặn đứng cuộc tấn công. Khi các máy bay Hellcat đến nơi, những máy bay Nhật vẫn đang còn cất cánh từ sân bay Orote. Một phút sau, nhờ radar, người Mỹ phát hiện ra thêm một lực lượng nữa của Nhật cất cánh từ một hòn đảo khác đang tấn công từ phía bắc. Một trận không chiến lớn đã diễn ra và kết quả là 35 máy bay Nhật bị bắn hạ. Trận không chiến này kéo dài trong khoảng một giờ nữa trước khi các máy bay Hellcat bị gọi trở về hàng không mẫu hạm.

Nhật Bản tấn công

USS Bunker Hill suýt bị trúng bom từ các máy bay Nhật trong đợt không kích ngày 19 tháng 6 năm 1944

08:30, Ozawa phát lệnh tấn công. Lực lượng C gửi đi 69 máy bay, lực lượng A gửi đi 128 máy bay và lực lượng B chỉ gửi đi 47 máy bay. Chưa đầy 1 giờ, hạm đội Nhật đã cho 244 máy bay xuất kích. Trong khi đó, về phía Mỹ, lệnh gọi trở về các máy bay F6F Hellcat được đưa ra sau khi vào lúc 10:00 sáng, radar Mỹ phát hiện đợt tấn công đầu tiên của máy bay Nhật cách 240 km về phía Tây. Khi còn cách hạm đội Mỹ khoảng 100 km, các máy bay Nhật bỗng dừng đà tiến để tập hợp lại đội hình tấn công. Đây là một sai lầm lớn của các phi công Nhật vì hành động trên đã làm mất 10 phút quý giá, do đó khi tốp đầu tiên các máy bay Hellcat đến lúc 10:36, lực lượng tấn công Nhật còn cách hạm đội Mỹ đến 110 km. 25 máy bay Nhật nhanh chóng bị bắn hạ trong khi Mỹ chỉ mất đúng 1 máy bay. Những chiếc máy bay Nhật còn lại tiếp tục gặp đợt tấn công khác của các máy bay đánh chặn Mỹ và thêm 16 chiếc nữa bị bắn hạ.

Kể cả khi đã vượt qua được hàng rào tiêm kích đánh chặn Mỹ, máy bay Nhật Bản lại phải đối mặt với một số lượng lớn các tàu tuần dương và tàu khu trục Mỹ được trang bị dày đặc pháo phòng không. Các tàu Mỹ có hệ thống điều khiển hỏa lực phòng không kiểu mới, bao gồm cả những khấu pháo cao xạ cỡ 76mm, 127mm trang bị đạn pháo phòng không có ngòi nổ cận đích (VT-fuzed) nên có xác suất bắn trúng đích cao hơn nhiều so với pháo phòng không kiểu cũ. Một số máy bay Nhật cố gắng tấn công 2 khu trục hạm Mỹ USS YarnallUSS Stockham nhưng không thành công. 3 oanh tạc cơ tấn công vào nhóm thiết giáp hạm của đô đốc Willis Lee và 1 chiếc đã ném bom trúng USS South Dakota, gây nhiều thương vong nhưng không thể vô hiệu hóa nó. Không một chiếc máy bay nào của Nhật đến gần được hàng không mẫu hạm Mỹ và chỉ có 27 chiếc có thể trở về. Trong đợt tấn công đầu tiên này, 42 máy bay Nhật bị bắn hạ trong tổng số 69, tỉ lệ tổn thất lên đến 61%.

Các thủy thủ trên chiến hạm USS Birmingham đang xem cảnh không chiến giữa máy bay Nhật và Mỹ

Trong khi chờ đợi, lúc 09:00, Ozawa mở cuộc oanh kích thứ hai gồm 129 máy bay. Lúc 11:07, radar Mỹ phát hiện ra các đợt oanh kích này. Khi còn cách hạm đội Mỹ 60 dặm (97 km), 70 máy bay Nhật bị bắn hạ trước khi có thể đến gần hạm đội. 6 chiếc khác tấn công nhóm tàu 58.2 của chuẩn đô đốc Alfred Montgomery và gây được một số tổn thương nhỏ lên 2 hàng không mẫu hạm Bunker HillWasp. 1 nhóm nhỏ các máy bay ném ngư lôi tấn công chiếc Enterprisengư lôi đã làm nổ tung lằn tàu. 3 chiếc máy bay ném ngư lôi khác tấn công hàng không mẫu hạm nhỏ Princeton nhưng bị bắn hạ. Kết thúc đợt tấn công thứ hai, 97 trên 129 chiếc máy bay ban đầu của Nhật bị bắn hạ.

Đợt thứ 3 gồm 47 máy bay tấn công từ phía Bắc. Lúc 13:00, khi còn cách hạm đội Mỹ 50 dặm (80 km), đợt tấn công này đã bị 40 máy bay Mỹ đánh chặn. 7 chiếc bị bắn hạ. Đợt tấn công này không thu được kết quả gì nhưng số máy bay bị bắn hạ đã giảm đi nhiều. 40 chiếc trở về oan toàn.

Đợt tấn công thứ 4 và cũng là cuối cùng gồm 84 máy bay, xuất kích trong thời gian từ 11.00 đến 11.30. Tuy nhiên, số máy bay này đã nhận thông tin sai về vị trí hạm đội Mỹ và không tìm được. Sau đó, các máy bay tấn công tách thành 2 nhóm đến GuamRota để tiếp nhiên liệu. Nhóm đến Rota trên đường đi đã gặp lực lượng TG 58.2 của Montgomery. 18 chiếc lao vào đánh nhau với các máy bay tiêm kích Mỹ và 9 chiếc bị bắn hạ. 9 máy bay ném bom tấn công 2 hàng không mẫu hạm Wasp và Bunker Hill nhưng không gây được tổn thương gì, lại thêm 8 chiếc bị bắn hạ. Nhóm đến Guam thì bị 27 chiếc F6F Hellcat đánh chặn và 30 trên 49 chiếc bị bắn hạ, số còn lại bị thương nặng.

Như vậy chỉ trong ngày đầu, 330 máy bay Nhật đã bị bắn hạ[8]. Số máy bay trên bao gồm hầu hết các máy bay Nhật trên quần đảo Marianaquần đảo Bonin, gần nửa số máy bay trên các hàng không mẫu hạm. Trong khi Mỹ chỉ tổn thất trong ngày này 23 máy bay. Vì cuộc đại bại này của không lực Nhật Bản mà trận đánh có biệt danh "Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"

Tàu ngầm Mỹ tấn công

Tàu ngầm USS Albacore (SS-218)

Ngày 16 tháng 6, tàu ngầm Mỹ USS Cavalla phát hiện một nhóm các tàu chở dầu Nhật đang đi theo Hạm đội cơ động về phía Bắc. Chỉ huy tàu ngầm này là Trung tá Herman J. Kossler đã thông báo phát hiện trên và có ý định tấn công các tàu chở dầu, tuy nhiên tổng chỉ huy lực lượng tàu ngầm hạm đội Thái Bình Dương Charles Lockwood lại ra lệnh cho tàu ngầm này bám theo các tàu chở dầu trên để tiếp cận Hạm đội cơ động. Ngày 17 tháng 6, hạm đội của Ozawa đến nạp đầy nhiên liệu lần cuối cùng trước trận đánh. Cavalla thông báo tin này và âm thầm bám theo Hạm đội cơ động trong khi người Nhật lại không hề hay biết gì cả.

Ngày 18 tháng 6, thêm một tàu ngầm Mỹ nữa đến phối hợp với USS Cavalla là USS Albacore. Sáng ngày 19 tháng 6, Albacore phát hiện các hàng không mẫu hạm Nhật và bắt đầu tấn công. Mục tiêu của nó là hàng không mẫu hạm Taihō, mẫu hạm mới nhất và lớn nhất trong lực lượng Nhật. Lúc này, Taiho vừa cho xuất kích 42 máy bay cho đợt tấn công thứ 2.

Hệ thống điều khiển ngư lôi của Albacore đã bị hỏng nên tất cả các ngư lôi đều được phóng bằng tay. 4 quả đi trệch mục tiêu và 2 quả trúng đích. Sakio Komatsu, một phi công Nhật vừa được phóng lên trông thấy quả ngư lôi đã không ngần ngại cho máy bay chúi đầu đâm vào và cả hai cùng nổ tung cách tàu 100 m. Tuy nhiên, quả ngư lôi thứ 2 đã đâm vào mạn tàu làm vỡ 2 thùng nhiên liệu máy bay. Đến thời điểm này, sự thiệt hại vẫn chưa có gì nghiêm trọng và chiếc tàu vẫn nằm trong tầm kiểm soát.

11:23, Cavalla thấy hàng không mẫu hạm Shōkaku đang chờ máy bay trở về đã cho phóng ngư lôi tấn công. Shōkaku đang trong quá trình tiếp nhiên liệu cho máy bay nên các ngư lôi đã gây ra các đám cháy không thể kiểm soát được và ngày càng bùng lên dữ dội khi nó gặp phải đạnbom trên tàu. Cuối cùng, thuyền trưởng đã phải ra lệnh bỏ tàu. Vào lúc 14:08, một trái bom phát nổ khiến Shōkaku chìm nhanh chóng và làm cho 1.263 người thiệt mạng. Tàu tuần dương Nhật Yahagi cùng các tàu khu trục Urakaze, Wakatsuki và Hatsuzuki đã cứu được Thuyền trưởng Matsubara Hiroshi cùng 570 thủy thủ.

Trong thời gian đó, sĩ quan chỉ huy việc sửa chữa tàu Taihō do thiếu kinh nghiệm đã để mắc 1 sai lầm khủng khiếp. Ông này ra lệnh cho mở toàn bộ hệ thống thông hơi trên tàu để tống hết khói ra. Tuy nhiên hành động này đã dẫn đến hơi xăng tràn khắp tàu và Taihō trở thành một quả bom hẹn giờ khổng lồ mà không ai hay biết. Lúc 17:32, hơi xăng trên boong tàu bắt lửa gây ra một chuỗi các tiếng nổ lớn rồi chìm, kéo theo 1.650 sĩ quan và thủy thủ. Như vậy trong ngày đầu trận chiến, Nhật đã để tàu ngầm Mỹ đánh chìm hai hàng không mẫu hạm của mình.

Mỹ phản công

Hàng không mẫu hạm Zuikaku (giữa) và 2 khu trục hạm của Nhật Bản đang bị tấn công bởi các hàng không mẫu hạm Mỹ ngày 20 tháng 6 năm 1944

Lực lượng đặc nhiệm Mỹ đã di chuyển về phía tây trong suốt đêm ngày 19 để tìm kiếm Hạm đội cơ động Nhật. Sáng ngày 20 tháng 6, các máy bay trinh sát đã được phóng lên để tiếp tục cuộc tìm kiếm. Phó đô đốc Jisaburo Ozawa đã chuyển sang khu trục hạm Wakatsuki sau khi Taihō bị trúng ngư lôi. Tuy nhiên hệ thống radio trên chiếc tàu này không có khả năng gửi đi đủ tín hiệu cần thiết nên ông lại chuyển kì hạm sang hàng không mẫu hạm Zuikaku lúc 13h00. Đến thời điểm này Ozawa mới biết thảm bại kinh hoàng trong ngày và ông nhận ra mình chỉ còn khoảng 150 máy bay. Tuy nhiên, Ozawa vẫn tin là tại GuamRota vẫn còn hàng trăm máy bay nữa (Phó đô đốc Kakuji Kakuta đã giấu không báo cáo cho ông việc các máy bay ở Guam và Rota đã bị mất gần hết) nên ông quyết định sẽ tiến hành không kích tiếp tục vào ngày 21 tháng 6.

Phải đến 15:40, trung úy R.S. Nelson, người được phóng lên từ hàng không mẫu hạm USS Enterprise mới tìm thấy hạm đội Nhật và gửi báo cáo. Tuy nhiên báo cáo đầu tiên lại quá ngắn khiến Mitscher vẫn không biết rõ vị trí. Đến 16:05, báo cáo thứ hai đến với nội dung hoàn toàn rõ ràng khiến Mitscher ngay lập tức quyết định mở cuộc không kích vào hạm đội Nhật. Quyết định này tương đối mạo hiểm vì 2 hạm đội cách nhau 2 tiếng bay và mặt trời sẽ lặn lúc 18.30.

Lúc các máy bay Mỹ đến là thời điểm hạm đội Nhật đang cho tiếp tế nhiên liệu. Ozawa chỉ có khoảng 35 máy bay lên đánh chặn để bảo vệ hạm đội nhưng các phi công này đều dày dặn kinh nghiệm. Hỏa lực súng phòng không Nhật cũng vô cùng mãnh liệt nhưng đợt tấn công này Mỹ sử dụng đến 225 máy bay nên không thể ngăn chặn được hết.

Những nạn nhân đầu tiên của đợt không kích này là 2 tàu chở dầu. Hàng không mẫu hạm Hiyō bị tấn công bởi bốn chiếc Grumman TBF Avenger từ hàng không mẫu hạm hạng nhẹ USS Belleau Wood và bị đánh trúng hai quả ngư lôi và chết đứng giữa biển trong khi các đám cháy lan rộng. Sau hai giờ, các vụ nổ xảy ra khiến nó chìm kéo theo 250 người trên tàu. Khoảng 1.000 thủy thủ đã được các khu trục hạm cứu. Đây cũng là hàng không mẫu hạm cuối cùng của Nhật bị đánh chìm trong trận này. Các hàng không mẫu hạm khác như Zuikaku, Junyō, Chiyoda cùng thiết giáp hạm Haruna bị thiệt hại nhẹ bởi bom. 20 máy bay Mỹ bị bắn hạ trong đợt không kích này.

Khi đợt tấn công kết thúc cũng là lúc trời đã sụp tối. Giờ đây các máy bay trở về phải đối mặt với những khó khăn và nguy hiểm trong việc hạ cánh vào ban đêm. Ngoài ra việc bay 275-300 dặm đến hạm đội Nhật cũng khiến cho nhiên liệu cạn kiệt đến mức nguy hiểm. Lúc 20:45, chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trở về Lực lượng đặc nhiệm 58.

Mitscher, người hiểu rõ những khó khăn của phi công trong việc hạ cánh ban đêm đã ra lệnh chiếu sáng toàn bộ các hàng không mẫu hạm, bất chấp mối đe dọa bởi các cuộc tấn công của tàu ngầmmáy bay bay đêm. Mọi chiến hạm đều bật sáng hết đèn và các khu trục hạm bắn đạn pháo sáng trong 2 giờ để giúp các máy bay trở về. Tuy vậy, cũng đã có 80 máy bay bị tai nạn trên boong khi hạ cánh hoặc đa số là rơi xuống biển. Đa số các đội bay đã được cứu trong những ngày tiếp theo.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_chiến_biển_Philippines http://www.angelfire.com/fm/odyssey/1.htm http://www.britannica.com/EBchecked/topic/456391/B... http://www.historyanimated.com/PhillipineSea.html http://www.navweaps.com/index_oob/OOB_WWII_Pacific... http://www.worldwar2database.com/cgi-bin/slideview... http://ww2db.com/battle_spec.php?battle_id=10 http://www.youtube.com/watch?v=qMVj-e0cBks http://www.historylearningsite.co.uk/battle_of_the... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Battle...